Sáng 17/9/1945, mặt trời vừa nhô lên từ phía Đông, ánh nắng vàng trải nhẹ trên mặt sông Hương phẳng lặng. Phía bờ Nam, người dân Huế mặc áo dài đứng chật hai bên đường, hướng mắt về phía hội trường nơi khai mạc “Tuần lễ Vàng”. Khác với hình ảnh giản dị thường thấy từ sau ngày vua Bảo Đại thoái vị, hoàng hậu Nam Phương xuất hiện trong bộ áo dài thêu kim tuyến, cổ đeo kiềng, tay đeo vòng, mười ngón lấp lánh nhẫn vàng, tai đeo bông tinh xảo.
Vị hoàng hậu cuối cùng của triều Nguyễn bước chậm rãi vào hội trường. Mọi ánh mắt dõi theo, có vài người thắc mắc: “Giờ cách mạng rồi, Ngài còn ăn diện làm chi rứa? ”. Trong "Tuần lễ Vàng" năm 1945, bà Nam Phương đã có những đóng góp về vật chất và lan tỏa, kêu gọi mọi người hưởng ứng ở Huế (Ảnh: Nhà nghiên cứu cung cấp).
Trước ánh mắt tò mò của mọi người, bà lặng lẽ tháo từng món trang sức rồi đặt lên bàn phủ khăn đỏ, tuyên bố hiến tặng toàn bộ cho nhà nước. Nhiều người nhớ đến bà Nam Phương với nhan sắc thanh tú, là hoàng hậu cuối cùng của triều đình nhà Nguyễn và chế độ quân chủ Việt Nam. Ít ai biết rằng, bà đóng vai trò tích cực trong phong trào "Tuần lễ Vàng" ở Huế.
Sự xuất hiện của bà đã góp phần khích lệ tinh thần yêu nước, tạo niềm tin để các tầng lớp nhân dân cùng nhau hưởng ứng. Sau khi đọc chiếu thoái vị vào ngày 30/8/1945, cựu hoàng Bảo Đại ra Hà Nội làm cố vấn. Bà Nam Phương ở lại Huế sống cùng các con trong cung An Định toạ lạc bên sông An Cựu. Bà hòa nhập vào cuộc sống của một thường dân rất nhanh. Người ta thấy bà hăng hái đạp xe đi họp Hội phụ nữ, gửi con tới các lớp học trong khu phố.
Hoàng hậu cuối cùng của triều Nguyễn sống lặng lẽ, vui vẻ và hoà nhã với mọi người. Trong bối cảnh đó, buổi đầu độc lập, ngân khố của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ có vỏn vẹn 1,25 triệu đồng Đông Dương nhưng một phần trong đó là tiền rách nát chờ tiêu hủy. Nạn đói, nạn dốt hoành hành... vận mệnh đất nước ở thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
Chính phủ đã phát động phong trào “Tuần lễ Vàng” trong cả nước từ 17 đến 24/9/1945 để động viên nhân dân quyên góp tiền bạc, của cải ủng hộ chính quyền cách mạng. Cùng với các địa phương khác, "Tuần lễ vàng" ở Huế nhận được ủng hộ của người dân. Sự xuất hiện của cựu hoàng hậu lập tức thu hút sự chú ý của đông đảo quần chúng. Ngày khai mạc, bà tích cực tham gia và đóng góp tạo hiệu ứng lan toả mạnh mẽ.
Cựu hoàng hậu nhận huy hiệu có hình cờ đỏ sao vàng và được mời làm chủ tọa “Tuần lễ Vàng” tại Huế. Nam Phương Hoàng hậu trong lần đến thăm trường nữ sinh Đồng Khánh ở Huế (Ảnh: Nhà nghiên cứu cung cấp). Quyên góp vàng cho nhà nước xong, bà Nam Phương vui vẻ trả lời báo chí.
Bà bày tỏ vinh dự và cảm kích trước sự đối đãi tử tế của Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với gia đình, chia sẻ niềm vui khi thấy chị em phụ nữ tham gia tích cực vào công cuộc cứu nước.
"Từ trong Nội (Hoàng thành) mới dọn sang, nhà cửa xếp đặt chưa xong, hiện nay tôi chưa làm được gì nhiều, nay mai khi nào chị em có việc gì cần, tôi sẽ rất sung sướng mà gánh lấy một phần công việc", bài viết của báo Quyết Chiến đăng ngày 18/9/1945 dẫn lời bà Nam Phương. Kết quả là “Tuần lễ Vàng” tại Huế đã huy động được tổng cộng 925 lượng vàng.
Trong đó, ông Nguyễn Duy Quang - từng làm việc trong Ngự tiền văn phòng của vua Bảo Đại góp 42 lượng vàng và ông Ứng Quang đóng góp 40 lượng. Trong những ngày sống ở cung An Định, cựu hoàng hậu vẫn theo dõi thời cuộc, tiếp các chị em phụ nữ tiến bộ từ Hà Nội vào. Ngày 12/9/1945, một đại đội quân Pháp núp bóng quân Anh vào Sài Gòn với âm mưu xâm lược Việt Nam lần thứ hai.
Không muốn chứng kiến viễn cảnh chiến tranh và đất nước chìm trong đau khổ, bà Nam Phương gửi Thông điệp kêu gọi phụ nữ thế giới ủng hộ nền độc lập non trẻ của Việt Nam. Bằng những lời lẽ đanh thép nhưng chan chứa tình cảm của một người mẹ, người vợ, bà kêu gọi chị em trên khắp năm châu hãy đứng về phía chính nghĩa, chung tay bảo vệ hòa bình của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Trước khi được tấn phong là hoàng hậu, bước ngoặt số phận của bà Nam Phương đến từ mối duyên định mệnh với hoàng đế sau một cuộc gặp gỡ tình cờ. Hoàng hậu Nam Phương, sinh ngày 14/11/1913 tại biệt thự số 37 đường Tabert (nay là đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, TPHCM). Lúc sinh ra, bà được đặt tên Jeanne-Mariette Nguyễn Hữu Hào, tên Việt là Nguyễn Thị Lan. Năm 14 tuổi, Nguyễn Thị Lan được gửi sang Pháp du học tại Couvent des Oiseaux - trường nữ tu danh giá dành cho con gái các thượng lưu.
Hoàn thành trung học, cô nữ sinh quyết định trở về Việt Nam. Vẻ đẹp của Nam Phương hoàng hậu khi mới đôi mươi (Ảnh: Getty Images). Cơ duyên thực sự đến vào tháng 2/1933, trong chuyến kinh lý Trung Kỳ của nhà vua. Tại buổi dạ hội xa hoa ở khách sạn Langbian Palace (Đà Lạt), Nguyễn Thị Lan theo cậu đến dự. Giữa ánh đèn vàng rực rỡ, trong tà áo dài lụa đen giản dị, cô gây chú ý ngay từ khi xuất hiện.
Khoảnh khắc tango vang lên, vua Bảo Đại ngỏ lời mời tiểu thư khiêu vũ, mở đầu cho mối duyên định mệnh. Từ lần gặp ấy, hai người dần trở nên thân thiết. Vua Bảo Đại ấn tượng với thiếu nữ dịu dàng nhưng toát lên vẻ hiện đại phương Tây. Năm 1934, lễ cưới trọng đại diễn ra tại Huế, Nguyễn Thị Lan chính thức trở thành Nam Phương hoàng hậu - vị hoàng hậu cuối cùng của triều Nguyễn. Bà sinh cho vua Bảo Đại 5 người con.
Năm 1963, cựu hoàng hậu qua đời tại Pháp vì bệnh tim, khép lại cuộc đời nhiều dấu ấn của một bậc mẫu nghi thiên hạ. Sinh ra trong gia đình giàu có với cuộc sống nhung lụa nhưng từ lúc còn bé Hoàng hậu Nam Phương đã được sống gần bà ngoại là Huỳnh Thị Tài - người phụ nữ rất giỏi trong việc quán xuyến gia đình và tham gia giúp đỡ các công tác ngoài xã hội - nên được dạy dỗ, giáo dục theo lối sống thiện tâm.
Chính vì vậy, khi trở thành bậc mẫu nghi thiên hạ, bà vẫn giữ được và luôn hướng về những mảnh đời kém may mắn Bà từng ghé nhà thương hủi (bệnh phong) Quy Hòa thăm hỏi, động viên bệnh nhân. Căn bệnh này không gây tử vong nhưng dẫn đến những biến dạng ở mặt, bàn tay, bàn chân... nên bệnh nhân bị mọi người xa lánh. Chuyến viếng thăm của bà đã giúp sưởi ấm những mảnh đời bất hạnh.
Trong một lần đến Đà Lạt năm 1938, bà thăm người dân nghèo mà không có xe cộ đưa đón, không quan chức nghênh tiếp. Hoàng hậu đi cùng mẹ đẻ là bà Long Mỹ Quận công Lê Thị Bình, Đông Cung thái tử Bảo Long và công chúa Phương Mai Trên mảnh đất mới còn nhiều khó khăn, hoàng hậu không ngại bùn lầy, đi qua những khu vườn mới khai phá. Bà bước vào trong nhà tranh vách đất của dân cày, đưa những lời khuyên hữu ích để ổn định cuộc sống.
Nam Phương Hoàng Hậu trong trang phục áo dài (Ảnh: Pestre). Chia sẻ với phóng viên , Tiến sĩ, nhà nghiên cứu Vĩnh Đào (sống ở Pháp, hậu duệ triều Nguyễn) cho rằng, việc bà Nam Phương góp mặt trong khai mạc "Tuần lễ Vàng" ở Huế và cởi bỏ trang sức để quyên góp cho chính quyền cách mạng mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.
"Đây là hành động cho thấy bà muốn tháo bỏ những thứ không cần thiết hay không còn thích hợp để góp phần vào công cuộc chung, đồng thời làm gương, khuyến khích những người khác noi theo”, ông nói. Đánh giá về những dấn thân cho xã hội của bà Nam Phương, ông Vĩnh Đào cho rằng, trong mỗi việc làm, bà đều đặt sự chân thật và lòng thương người lên hàng đầu.
“Khi viếng thăm bệnh viện, trường học, trung tâm xã hội, Hoàng hậu đều nhờ một người tùy tùng kín đáo trao lại cho ban giám đốc một bao thơ (phong bì) đựng một số tiền do bà tặng. Bà Nam Phương luôn luôn dùng tiền riêng của gia đình, không bao giờ dùng một đồng của triều đình hay nhà nước bảo hộ”, ông Vĩnh Đào cho biết. Tiến sĩ Nguyễn Vĩnh Đào (bên phải) trong lần ra mắt sách ở Việt Nam năm 2024 (Ảnh: Minh Nhân - Minh Trang).
80 năm đã qua, cho đến nay, ý nghĩa của "Tuần lễ Vàng" vẫn còn nguyên giá trị. Đó là hình ảnh đẹp về sức mạnh lòng dân và nghệ thuật huy động sức dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Từ một đất nước khó khăn bộn bề với ngân khố cạn kiệt của buổi đầu độc lập, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng như: GDP đứng thứ 33 trên thế giới, đạt 476,3 tỷ USD, là một trong 20 nền kinh tế hàng đầu về quy mô thương mại, xếp thứ 23 thế giới về kim ngạch xuất khẩu. Tính riêng năm 2024, nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng 7,09%, thuộc nhóm số ít các nước tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới.
Là Việt kiều sống xa Tổ quốc, ông Vĩnh Đào thường xuyên thu xếp thời gian, về thăm quê hương mỗi năm 2 lần. Mỗi dịp về quê, ông đều nhìn thấy sự thay đổi ở các địa phương, đời sống người dân ngày càng được nâng cao. "Tôi ấn tượng với sự phát triển nhanh chóng của quê hương. Mức tăng trưởng kinh tế ở mức cao của Việt Nam là con số mà các nước châu Âu mong ước", nhà nghiên cứu gốc Việt nhấn mạnh.

