Khi Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng được công bố để toàn dân góp ý, không khí đổi mới và khát vọng phát triển lại một lần nữa lan tỏa khắp đất nước. Dự thảo các Văn kiện lần này không chỉ là sự tổng kết một nhiệm kỳ, mà còn là bản thiết kế tư duy cho kỷ nguyên phát triển mới của Việt Nam.
Điều gây ấn tượng mạnh nhất với tôi trong Dự thảo các Văn kiện Đại hội XIV chính là tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá khách quan tình hình”. Không né tránh, không tô hồng, Dự thảo các Văn kiện đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, tồn tại, từ năng suất lao động thấp, đổi mới sáng tạo chưa trở thành động lực chủ yếu, đến tình trạng cục bộ, trì trệ trong bộ máy và thủ tục hành chính vẫn còn gây phiền hà.
Cách nhìn ấy không phải để phê phán, mà để thức tỉnh và chuyển hóa. Bởi một dân tộc chỉ có thể tiến xa nếu dám soi chiếu vào chính mình. Cũng giống như cơ thể muốn khỏe mạnh thì phải biết chẩn đoán đúng bệnh, đất nước muốn phát triển phải dám nhận biết vấn đề và đối diện với vấn đề. Chính tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật” đã mở đường cho một tầm nhìn mới, tư duy phát triển dựa trên thực chất, hiệu quả và giá trị.
Từ đây, sự đổi mới không chỉ là khẩu hiệu, mà còn là một quá trình tự soi, tự sửa, tự làm mới để đất nước trưởng thành hơn, mạnh mẽ hơn. Một gia đình đưa con nhỏ tới ghi lại khoảnh khắc đáng nhớ trong dịp kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công ở khu vực phố cổ Hà Nội, tháng 8/2025 (Ảnh: Mạnh Quân) Một trong những điểm đột phá rõ rệt của Dự thảo các Văn kiện là sự chuyển đổi căn bản trong tư duy phát triển.
Nếu như trước đây, Nhà nước chủ yếu được nhìn nhận ở vai trò quản lý, điều hành, thì nay, định hướng mới đặt trọng tâm vào việc kiến tạo phát triển, phục vụ nhân dân và đồng hành cùng doanh nghiệp. Đây không chỉ là sự thay đổi về ngôn ngữ chính trị, mà còn là bước ngoặt trong triết lý quản trị quốc gia.
Nhà nước không còn chỉ làm “người cầm lái” mà còn là “người mở đường”, tạo không gian cho xã hội, cho doanh nghiệp, cho mỗi công dân phát huy tối đa năng lực sáng tạo.
Tư duy ấy thể hiện rõ trong những định hướng lớn: Phát triển nhanh và bền vững trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; hoàn thiện thể chế theo hướng minh bạch, hiện đại, kiểm soát quyền lực hiệu quả và khuyến khích đổi mới; xây dựng con người Việt Nam sáng tạo, nhân ái, liêm chính và khát vọng, như nguồn nội lực vững chắc nhất của quốc gia.
Khi đổi mới tư duy trở thành động lực, thể chế trở thành đòn bẩy và con người trở thành trung tâm, thì khát vọng phát triển không còn là điều xa vời, mà là sứ mệnh đang được hiện thực hóa từng ngày. Từ những dòng chữ của Dự thảo các Văn kiện, ta có thể cảm nhận rõ một tinh thần Việt Nam đang trỗi dậy – tự tin, tự chủ và tự cường.
Không chỉ là khát vọng thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, mà còn là khát vọng vươn tới tầm cao mới của văn minh, phồn vinh và hạnh phúc. Khát vọng ấy không phải là lời nói suông. Nó được đặt nền tảng trong những mục tiêu cụ thể: Đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Đó là một hành trình dài, nhưng điều quan trọng là niềm tin vào năng lực dân tộc đã trở lại mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Dự thảo các Văn kiện nhấn mạnh tinh thần tự chủ chiến lược, tự cường, tự tin, tiến mạnh trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, khẳng định tương lai đất nước do chính người Việt Nam kiến tạo bằng trí tuệ và bản lĩnh của mình.
Những từ khóa như khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, xanh hóa phát triển, chuyển đổi số, kinh tế tri thức, giá trị văn hóa Việt Nam… không chỉ là định hướng, mà còn là những trụ cột của mô hình phát triển mới, nơi tinh thần tự lực và năng lực hội nhập cùng hòa quyện để tạo nên sức mạnh Việt Nam.
Khi tư duy phát triển đã được làm mới, tầm nhìn chiến lược đã được định hình, thì điều đất nước cần hơn cả chính là những đột phá có khả năng tạo nên bước chuyển thực chất.
Theo Dự thảo các Văn kiện, các đột phá chiến lược xác định trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng có giá trị chỉ đạo thực hiện cho cả giai đoạn 2021-2030, song để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đất nước, trong nhiệm kỳ 2026-2030 tập trung vào những nội dung then chốt là thể chế, nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng. Khởi đầu từ nền tảng thể chế chính là bước ngoặt của một quốc gia đổi mới mạnh mẽ.
Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng xác định rõ rằng, thể chế hiện hành còn những điểm nghẽn, những ràng buộc chồng chéo làm chậm tốc độ phát triển; do đó, đột phá mạnh mẽ về thể chế phát triển, nâng cao năng lực hoạch định và tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước là để khơi thông, giải phóng và phát huy hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước.
Thiết nghĩ, khi thể chế được xây dựng theo hướng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, thì niềm tin – vốn xã hội – sẽ được củng cố. Niềm tin này không chỉ ở trong người dân, mà còn ở môi trường kinh doanh, ở đối tác quốc tế: đó là điều kiện tiên quyết để nguồn lực bên trong và bên ngoài được khai thông. “Khơi thông và giải phóng mọi nguồn lực, phát huy mọi động lực” là cụm từ được nhấn mạnh trong Dự thảo các Văn kiện.
Nói cách khác: phát triển nhanh – bền vững chỉ thực sự có thể khi các rào cản thể chế được tháo gỡ. Việc nâng cao chất lượng pháp luật và thực thi pháp luật, kiểm soát quyền lực chặt chẽ, làm trong sạch bộ máy nhà nước… là tạo môi trường để mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp, mỗi địa phương được tự tin “sáng tạo – phát triển – vươn lên”. Nếu thể chế là khung khổ, thì con người chính là năng lượng – là trung tâm và là động lực của mọi phát triển.
Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV nhấn mạnh: “Con người là trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động lực”. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, cách mạng công nghiệp 4. 0 và chuyển đổi số, tăng trưởng dựa vào tài nguyên thiên nhiên không còn là con đường đủ mạnh. Nguồn nhân lực chất lượng cao, sáng tạo và có khả năng thích ứng mới là tài nguyên chiến lược. Điều này được xác định rõ trong Dự thảo các Văn kiện.
Đổi mới giáo dục, đào tạo, thu hút nhân tài là những giải pháp trọng tâm. Nhưng quan trọng hơn là tạo môi trường – môi trường để mỗi người có thể “học cách học”, “học cách đổi mới”, “học cách sáng tạo”. Bên cạnh đó, Dự thảo các Văn kiện cũng thừa nhận có những khoảng trống: con người chưa thực sự phát huy hết tiềm năng, môi trường sáng tạo chưa đủ hỗ trợ, chênh lệch về cơ hội giữa thành thị – nông thôn còn lớn.
Chính vì vậy, khi nói “đột phá về con người”, chúng ta đang nói đến việc thay đổi từ gốc: tư duy – kỹ năng – môi trường – cơ chế. Khi mỗi người Việt Nam được phát huy tiềm năng thì cả dân tộc sẽ mạnh hơn, vươn lên mạnh mẽ hơn. Hạ tầng – cả vật chất và số – chính là “mạng lưới” cho sự phát triển lan tỏa.
Dự thảo các Văn kiện xác định rõ: từ hạ tầng giao thông, năng lượng đến hạ tầng số, đô thị, vùng và không gian phát triển đều phải thông và mở. Hạ tầng giao thông hiện đại giúp kết nối các vùng, khai mở tiềm năng – đặc biệt với vùng sâu, vùng xa, miền núi – tạo không gian cho tăng trưởng. Hạ tầng số, chuyển đổi số là “đường cao tốc” cho đổi mới sáng tạo, kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế.
Khi hạ tầng số vững mạnh, mọi người dân và doanh nghiệp có thể tham gia chuỗi toàn cầu, sáng tạo không biên giới. Hơn nữa, không gian phát triển cũng liên quan đến mô hình quản trị – như đề cập việc tinh giản bộ máy, mô hình chính quyền địa phương hai cấp – điều này không chỉ là hiệu quả hành chính mà còn là cách mở ra không gian tự chủ và phát triển cho địa phương.
Như vậy, đột phá về hạ tầng và không gian phát triển là đột phá về “không gian vận hành” cho quốc gia – khi con đường thông, khi mạng lưới số phủ, khi quản trị gần dân – thì dòng chảy phát triển sẽ mạnh hơn, lan tỏa hơn, công bằng hơn.
Ngoài ra, một luận điểm rất cơ bản trong Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV xác định văn hoá, con người là nền tảng, nguồn lực, sức mạnh nội sinh và là động lực to lớn, hệ điều tiết sự phát triển xã hội bền vững. Khi nền tảng văn hóa được nâng lên, xã hội sẽ có sức mạnh nội sinh để phát triển bền vững – vì con người không chỉ làm việc tốt mà còn sống đẹp, nghĩ lớn, hành động nhân văn và sáng tạo.
Việc lấy ý kiến toàn dân về Dự thảo các Văn kiện có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Đây là biểu hiện sinh động trong phương thức lãnh đạo của Đảng – một Đảng cầm quyền của dân, do dân và vì dân. Khi nhân dân được nói, được góp ý, được tham gia vào việc định hình đường hướng phát triển quốc gia, thì tính chính danh, tính đồng thuận và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc được nhân lên gấp bội.
Mỗi ý kiến đóng góp của người dân, dù nhỏ, đều là một hạt giống gieo vào mảnh đất của khát vọng chung – khát vọng về một Việt Nam hùng cường, hạnh phúc. Từ sau Đổi mới năm 1986, Việt Nam đã có những bước tiến ngoạn mục. Khi Đảng nhìn thẳng vào sự thật, khi nhân dân đồng lòng, khi thể chế khai phóng, và khi mỗi người Việt nuôi dưỡng trong mình khát vọng vươn lên – đó là lúc sức mạnh Việt Nam được giải phóng mạnh mẽ nhất.
Con đường phía trước vẫn còn nhiều thử thách, nhưng chúng ta có niềm tin, có trí tuệ, có bản lĩnh và có khát vọng. Đó chính là nguồn năng lượng tinh thần vô tận đưa đất nước tiến lên – không chỉ để “không tụt lại”, mà còn để vươn lên dẫn dắt, sáng tạo và lan tỏa những giá trị tốt đẹp ra thế giới.

