của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo đặt mục tiêu phấn đấu ít nhất 8 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 200 đại học hàng đầu châu Á. Đồng thời đến năm 2030, Việt Nam có ít nhất một trường trong top 100 thế giới ở một số lĩnh vực, nâng lên thành 5 trường vào năm 2045. Theo một số chuyên gia, đây là mục tiêu cụ thể, táo bạo, góp phần nâng tầm danh tiếng giáo dục đại học Việt Nam trên bản đồ thế giới.
Hiện, có gần 20 trường đại học Việt Nam góp mặt ở hai bảng xếp hạng uy tín, có quy mô lớn như và. Con số này tăng gần 10 lần so với năm 2018, khi chỉ có Đại học Quốc gia Hà Nội và TP HCM tham gia. Với , các trường được đánh giá dựa trên 18 tiêu chí, chia thành 5 nhóm, gồm: Giảng dạy (Teaching), Môi trường nghiên cứu (Research Environment), Chất lượng nghiên cứu (Research Quality), Chuyển giao công nghệ (Industry), Mức độ quốc tế hóa (International Outlook).
Mỗi nhóm tiêu chí chiếm 4-30% trọng số, nhiều nhất ở khía cạnh chất lượng nghiên cứu. Còn đánh giá 9 tiêu chí, trong đó danh tiếng học thuật chiếm trọng số lớn nhất - 30%, kế đến là số trích dẫn (20%). Các tiêu chí còn lại là uy tín của trường, tỷ lệ giảng viên/sinh viên, tính quốc tế, mạng lưới nghiên cứu quốc tế, kết quả việc làm và tính bền vững, chiếm 5-15%. Do tiêu chí khác nhau, thứ hạng của đại học Việt Nam trên hai bảng xếp hạng này cũng khác nhau.
Vị trí cao nhất hiện có là 127 châu Á, thuộc về trường Đại học Duy Tân, trên bảng xếp hạng năm 2025. Ở bảng , Đại học Kinh tế TP HCM đang xếp cao nhất - 136 châu Á.
1 Đại học Duy Tân 127 2 Đại học Quốc gia Hà Nội 161 3 Đại học Quốc gia TP HCM 184 4 Đại học Tôn Đức Thắng 199 5 Đại học Nguyễn Tất Thành 333 6 Đại học Huế 348 7 Đại học Kinh tế TP HCM 369 8 Đại học Bách khoa Hà Nội 388 9 Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP HCM 421-430 10 Đại học Đà Nẵng 421-430 11 Đại học Giao thông Vận tải 481-490 12 Đại học Văn Lang 491-500 13 Đại học Công nghiệp TP HCM 501-520 14 Đại học Cần Thơ 521-540 15 Đại học Mở TP HCM 701-750 16 Đại học Sư phạm Hà Nội 751-800 17 Đại học Vinh 851-900 18 Đại học Kinh tế TP HCM Đại học Duy Tân Đại học Tôn Đức Thắng Đại học Y Hà Nội Đại học Mở TP HCM Đại học Quốc gia Hà Nội Đại học Bách khoa Hà Nội Đại học Huế Đại học Quốc gia TP HCM Đại học Văn Lang Đại học Cần Thơ Đại học Công nghiệp TP HCM Đại học Đà Nẵng Về , ở cả bảng xếp hạng của QS và THE, Việt Nam có 9 đại diện góp mặt, song cách chia lĩnh vực không đồng nhất.
Trên bảng xếp hạng mới nhất của công bố hồi tháng 3, ở lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ, Đại học Duy Tân dẫn đầu với hạng 363 thế giới. Trong lĩnh vực này, ở ngành Khoa học máy tính, Duy Tân trong nhóm 201-250. Đại học Duy Tân cũng đứng đầu nhóm Khoa học tự nhiên với vị trí 377. Ở lĩnh vực Khoa học xã hội và Quản lý, Đại học Quốc gia Hà Nội và TP HCM cùng trong nhóm 501-550.
Với một số ngành lẻ, Việt Nam có thứ hạng khá cao ở Nghệ thuật trình diễn khi Đại học Văn Lang lọt top 51-100, Đại học Duy Tân và Văn Lang trong nhóm 101-150, lần lượt ở hai ngành Kiến trúc và Nghệ thuật và thiết kế. Ở bảng , các trường của Việt Nam chủ yếu nằm trong nhóm 301-1. 000. Đại học Duy Tân và Tôn Đức Thắng dẫn đầu, thuộc top 301-400 ở nhóm ngành Kỹ thuật và Khoa học vật lý. GS.
TS Huỳnh Văn Chương, Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng, Bộ Giáo dục và Đào tạo, ngày 7/9 cho rằng tham gia xếp hạng quốc tế là cần thiết nhưng hoàn toàn tự nguyện. Theo ông, các trường đang đứng trước nhiều thuận lợi, sau nghị quyết 57 về đột phá phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, cùng nghị quyết 71. Việc nâng cao chất lượng một cách bền vững và cải thiện thứ hạng sẽ thành hiện thực trong tương lai không xa.
Sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh:

